CHỨNG TỰ KỶ 

 

Chương  Bốn:  Những  Tật  Chính

 

A. Hành Vi                                                                                                   
1. Nguyên Do                                                                       
2. Công Dụng của Hành Vi. 
3. Giải Quyết                                                                        
4. Tự Hại Thân.                                                        
5. Cắn.                                                                                              
6. Si Mê.                                                                                           
7. Cách Đáp Ứng.                                                                 
8. Tự Kỷ và Tội Phạm.         

B. Ngôn Ngữ                                                                                                
C. Kỹ Năng Giao Tiếp                     

1. Kỹ Năng Giao Tiếp là gì. 
2. Dạy Điều Chi.                                                      
3. Dạy Khi Nào                                                        
4. Tập Kỹ Năng Giao Tiếp.              

D.Cảm Quan                                                                                    

Tóm Tắt                                                        

                 
_______________________

 

A. Hành Vi.

Người tự kỷ hay có hành vi lạ lùng, khó hiểu, và gây bực dọc cho người khác. Hành vi xẩy ra bất kể tuổi hay khả năng cao thấp của họ, điều quan trọng cần biết là mỗi người và mỗi trường hợp đều khác nhau, và cách đối phó hiệu quả cho người này chưa chắc cũng sẽ cho kết quả tương tự nơi người khác. Trong nhiều trường hợp, hành vi là một cách  liên lạc tỏ ý, ta có câu 'Chửi chó mắng mèo' ngụ ý ai có hành vi này không phải là họ bực dọc với chó, mèo mà thực ra đang tức mình chuyện khác, hành vi ấy là cách nói gián tiếp với người chung quanh rằng có chuyện làm họ không vui; chó mèo chỉ là cái cớ ngoài mặt mà không phải là nguyên nhân đích thực gây ra hành vi.
Vì vậy, khi trẻ tự kỷ có hành vi gây khó chịu cho người khác, kinh nghiệm cho thấy ta không nên tin rằng em hư, cố ý không vâng lời, có ý chọc phá và do đó trừng phạt con, mà nên tự hỏi 'Em muốn nói điều chi, muốn tỏ ý gì với hành vi này ?'.
Để đối phó với tật trước tiên ta cần tìm hiểu về cảnh sống của em. Nhìn theo quan điểm của trẻ tự kỷ, ta thấy rằng trẻ sống trong cảnh mà hầu như em không hiểu biết về chuyện gì xẩy ra chung quanh, và người ngoài trông mong em xử sự theo một khuôn mẫu mà em không biết đó là gì. Môi trường sinh sống của em có những qui luật mà em không hiểu, có những thay đổi luôn không đoán được. Trẻ có khi không có kỹ năng sơ sài nhất để bầy tỏ ý mình, cho biết em muốn chi. Vì những lẽ ấy, chuyện không có gì phải ngạc nhiên khi thỉnh thoảng em có hành vi gây khó chịu cho người khác.
Đôi khi người ta thấy rằng hành vi có thể có nhiều mục tiêu, ban đầu nó được dùng để  liên lạc tỏ ý và rồi biến thành cách để làm cha mẹ chú ý đến con, hoặc để sinh ra kết quả nào khác do phản ứng của ta. Thế nên điều rất quan trọng là cha mẹ có hiểu biết rõ ràng về những yếu tố khác nhau có thể can dự vào việc sinh ra, và duy trì một hành vi.

1. Nguyên Do.
Có nhiều nguyên do khiến trẻ tự kỷ gặp khó khăn về hành vi. Sự kiện chứng tự kỷ có khiếm khuyết về  liên lạc tỏ ý có nghĩa  thế giới có thể nhiều khi là chỗ rối rắm, cô lập và đáng sợ cho em. Ta liệt kê dưới đây vài nguyên nhân có thể có.

● Liên Lạc Tỏ Ý.
Người tự kỷ gặp khó khăn trong việc  liên lạc tỏ ý theo nhiều cách, vừa là việc tỏ ý với người khác tức ngôn ngữ biểu lộ, vừa là việc hiểu lời người khác nói với họ tức ngôn ngữ tiếp nhận. Họ cũng thấy khó mà hiểu những dấu hiệu không lời như biểu lộ của nét mặt và điệu bộ thân hình. Kết quả là trẻ con thấy bực bội khi tìm cách cho biết nhu cầu của chúng, hoặc lo lắng khi khó mà hiểu ý người khác.
– Khung cảnh.
Khó khăn về  liên lạc tỏ ý còn có thể ảnh hưởng cách người ta đối phó với khung cảnh trong xã hội. Người tự kỷ có thể có mức căng thẳng cao hơn vì phải cố gắng nhiều khi tiếp xúc với người khác, và do đó bị lo lắng. Họ cũng có thể không hiểu những qui tắc giao tiếp trong xã hội, thành ra khung cảnh có vẻ rối rắm, gây bực bội cho họ, nhất là trong những cảnh ngộ mới. Giao tiếp với người khác có thể là chuyện khó tiên liệu nên vài người có hành vi nào đó để tránh không giao tiếp.
– Giờ trống không có sinh hoạt.
Trẻ tự kỷ cũng thấy khó nhớ trong trí thứ tự việc phải làm trong ngày, thành ra em không tiên liệu chuyện gì sẽ xẩy ra kế đó, nhất là giờ trống không có sinh hoạt liệt kê thí dụ như giờ ra chơi, ăn trưa ở trường. Người tự kỷ yếu về các khái niệm trừu tượng, thí dụ không hiểu rõ về thời gian là sao; khiếm khuyết này làm họ khó mà chờ đợi. Giờ không có sinh hoạt ấn định cũng thường khi ồn ào và hỗn độn; kết quả là hành vi khó chịu xẩy ra vào lúc chuyển tiếp giữa hai giờ học hay hai sinh hoạt khác nhau.

● Khó Khăn về Cảm Quan.
Nhiều người tự kỷ gặp khó khăn trong việc diễn giải những kích thích cảm quan, họ quá nhậy hoặc không nhậy. Nó có nghĩa một số mùi, ánh sáng hay âm thanh có thể làm họ khổ sở. Có người thấy khó mà ngăn chặn tiếng ồn trong môi trường, và cảm thấy mình tiếp nhận quá nhiều thông tin bằng mắt. Kết cục là làm như âm thanh, ánh sáng và mùi tràn vào tâm trí họ với cùng mức độ mạnh mẽ, làm họ choáng ngợp. Bạn có thể thấy con bắt đầu có hành vi lập đi lập lại trong khung cảnh đặc biệt nào đó gây căng thẳng, như phẩy tay, quay mòng mòng, ấy là cách em cố gắng ngăn lại tất cả những thông tin từ bên ngoài về cảm quan. Người tự kỷ có thể rất nhậy cảm về những thay đổi tinh tế trong môi trường. Nếu thấy đột nhiên có thay đổi về hành vi thì chuyện luôn luôn đáng công là xem gần đây có xáo trộn nào trong lớp, gia đình, khung cảnh chung quanh.
● Nguyên Do Y khoa.
Nếu hành vi của con đột nhiên thay đổi, chuyện luôn luôn nên làm là đưa con đi khám để xem chắc là việc khó chịu không do bệnh tật nào gây ra. Trẻ con và người lớn tự kỷ có thể thấy khó mà nói cho người khác biết họ cảm thấy gì, hoặc chỗ nào đau trên người, ngay cả khi họ nói giỏi. Trẻ nào có tật động kinh có thể thấy bực bội và hoang mang; bệnh về đường ruột có thể gây đau đớn. Bạn có thể dùng hình để giúp con chỉ cho biết đau ở đâu. Hành vi mà con đã hết làm cũng có thể trở lại trong lúc đau ốm, và bạn cần tìm cách giải quyết tật lần nữa.

● Bắt nạt.
Chuyện không may là trẻ tự kỷ dễ bị bắt nạt hơn trẻ khác, và nếu bạn để ý thấy có thay đổi đột ngột, lo âu hay bực bội thì nên tìm hiểu xem có chuyện bắt nạt hay bị chòng ghẹo nhiều lần ở trường. Lại nữa, cũng nên lưu ý đây là chuyện con sẽ thấy khó mà nói cho bạn hiểu.

● Có thay đổi.
Người tự kỷ có thể thấy khó đối phó khi có thay đổi trong cuộc sống, hoặc chỉ là thay đổi tạm thời trong thời biểu ở trường, hoặc thay đổi có tính vĩnh viễn như dọn nhà đi nơi khác. Hành vi của trẻ có thể khác đi vào lúc có thay đổi, tuy nhiên điều này có thể chỉ tạm thời và mất đi khi em quen hơn với khung cảnh hay thông lệ mới.
Chuyện kể có em đột nhiên phá phách, la hét. Tìm hiểu thì gần đây cô giáo dùng nước hoa khác. Khi cô dùng trở lại mùi khi trước thì hành vi khác thường của em chấm dứt, bởi em không biết nói nên không thể cho cha mẹ biết điều làm em khó chịu.
● Giao Tiếp.
Những khó khăn về loại này biểu lộ qua hành vi là: 
– Khung cảnh giao tiếp có thể không tiên liệu được  nhiều, sinh ra căng thẳng cho người tự kỷ, và người ta có thể có hành vi bất lợi để tránh hoặc giới hạn việc giao tiếp.
– Không hiểu sự quan trọng của việc tương tác là để thỏa mãn nhu cầu hoặc sự ham muốn, và có thể dẫn đến hành vi khó chịu như là cách đền bù.
– Không hiểu biết những qui luật bất thành văn trong xã hội có thể làm người ta hoang mang, và hiểu lầm trong khi giao tiếp, và có thể dẫn tới hành vi người khác cho là không thích hợp.

● Thiếu Óc Tưởng Tượng.
Khó khăn về mặt này thể hiện qua nhiều cách. Trẻ tự kỷ thì không biết chơi giả bộ, người khác có thể hết sức sáng tạo, giầu óc tưởng tượng nhưng chỉ liên quan đến sở thích đặc biệt của họ mà không tưởng tượng g về mặt giao tiếp. Nhiều người có tật theo sát thông lệ, chuyện tiên liệu trước và rất khổ sở khi có điều bất ngờ trái với dự liệu xẩy ra, như thầy cô vắng mặt và có người khác thay thế, hoặc hồ bơi đóng cửa  một hôm và họ không thể đi bơi như thường lệ. Trường hợp khác là có người thích một đồ vật hay sinh hoạt, và sinh bực bội khi không có vật hay không được làm sinh hoạt.
Đa số người tự kỷ cũng gặp khó khăn trong việc nhìn vấn đề theo quan điểm của người khác (đây là thuyết Hiểu Trí Người - Theory of Mind ToM). Họ không hiểu rằng người khác có thể có cảm xúc hay tư tưởng khác với họ. Khó khăn nữa là nhiều người không biết sắp xếp chuyện tương lai như soạn chương trình để làm, hình dung ra chuyện gì sẽ tới theo trình tự, thứ tự của công việc, và có ý niệm trừu tượng như thời gian trôi qua.
Hành vi do không biết tưởng tượng có thể kể là:
– Thông lệ thay đổi, chuyện không tiên liệu xẩy ra và giờ trống không có gì làm có thể gây lo lắng cực độ, khổ sở và dẫn tới hành vi khó chịu như là cách đối phó của họ.
– Trình tự của việc có nhiều bước hay nhiều giai đoạn làm khó mà tiên liệu việc gì sẽ tới, và cũng gây căng thẳng, lo lắng.
– Vì không thể tưởng tượng ra được chuyện gì sẽ tới, cộng thêm với việc không hiểu các ý niệm trừu tượng, người tự kỷ có thể gặp khó khăn khi phải chờ đợi, sinh ra hành vi gây bực bội vì thiếu hiểu biết.
– Khó khăn trong việc hiểu quan điểm của người khác có thể dẫn tới hành vi có vẻ như không thích hợp hoặc đôi khi bị xem là ích kỷ, có hại mà đương sự không biết. Thí dụ thiếu niên có thể vừa đi về hướng toilet công cộng vừa cởi khóa quần, không biết chuyện em làm là trái với lề thói trong xã hội.
– Cắt ngang sinh hoạt liên quan đến sở thích đặc biệt của người tự kỷ có thể gây khổ sở, dẫn đến hành vi khó chịu.

2. Công Dụng của Hành Vi.

Ai cũng học được từ kinh nghiệm đã có  để chọn cách xử sự thuận lợi cho tương lai. Nếu ta thấy xử sự theo một cách nào đó cho ra kết quả mong muốn, nhiều phần ta sẽ làm theo cách đó nữa cho những lần về sau. Thí dụ nếu trẻ thấy ăn vạ, lăn ra đất gào khóc ở siêu thị sẽ được điều mà em muốn (được kẹo, hoặc được về nhà không bị tiếng ồn, ánh đèn chói làm em điên đầu), thì lần sau em sẽ lập lại hành vi ấy để được kẹo.
Nghĩ như vậy  thì ta thấy mọi hành vi đều là hình thức liên lạc tỏ ý và câu hỏi sẽ là:
- Con muốn nói gì với ta qua hành vi này ? Con muốn gì khi làm vậy (đập đầu, cắn) ?
Đôi khi ta thấy rằng hành vi có thể có nhiều công dụng, hoặc ban đầu nó được làm với dụng ý này (đập đầu vì đau tai) mà do phản ứng của ta chuyện sinh ra kết quả nọ (đập đầu và không phải đi học). Trẻ rút kinh nghiệm và dù không đau tai cũng sẽ đập đầu và được ở nhà. Vì vậy điều rất quan trọng là ta có hiểu biết rõ ràng về những yếu tố khác nhau có thể can dự để gây ra hành vi và rồi duy trì nó.
Nói về công dụng của hành vi, cho một số người, hành vi tự hại thân có thể có vai trò về mặt cảm quan tức làm tăng hay giảm sự kích thích; với người khác hành vi có thể là đáp ứng với đau đớn nào đó của thân xác. Có gợi ý là ta nên xem hành vi như phần tảng băng lộ trên mặt nước, có nghĩa còn nhiều điều khác nằm bên dưới mặt nước không lộ ra cho bất cứ hành vi nào mà ta thấy. Người tự kỷ không phải lúc nào cũng lộ ra nét mặt hoặc bộ dạng thân hình, cảm giác và cảm xúc của  họ như người bình thường làm, nên ta phải tìm hiểu để đoán chuyện gì xẩy ra.
Trong đa số trường hợp, con đang tìm cách tỏ cho bạn một điều gì đó qua hành vi, nên về một mặt, hành vi của trẻ tự kỷ giống như của trẻ sơ sinh. Em bé khóc thì có nhiều nguyên do, em khóc là muốn cho ta biết tã ướt, em đói bụng, hoặc đau bụng, nóng nực, mệt mỏi v.v.. Vì em bé chưa biết nói, cha mẹ phải làm thám tử suy xét coi hành vi muốn nói gì. Việc truy tìm này cũng áp dụng cho trẻ hay người lớn tự kỷ không biết nói.
                    Kyle 8 tuổi thích ném cuộn giấy toilet ra ngoài cửa sổ nhà tắm, nó rơi xuống vườn nhà bên cạnh. Hàng xóm không vui. Cha mẹ đóng cửa sổ thì em đập vỡ kính; họ dấu cuộn giấy thì em khổ sở tới mức cắn mẹ. Cách em làm là kéo giấy cho dài một khoảng rồi ném cuộn giấy, xem nó rơi. Mọi người gãi đầu ngẫm nghĩ tại sao em làm vậy. Có phải để có kích thích thị giác ? Em có thích ruban (băng dây vải - ribbon) không ?
                    Cha mẹ đi mua mấy thước dây băng vải đủ mầu rực rỡ, cột vô cửa sổ rồi chỉ cho em tung nó ra ngoài xong lấy vô. Em reo lên thích thú, đứng chơi cả mấy tiếng đồng hồ, thẩy ra kéo vô hoài không chán. Kết cục là ai cũng vui, kể cả hàng xóm ! Người ta chỉ tìm ra giải pháp khi hỏi 'Tại sao có hành vi ?' Chuyện không liên can gì đến cuộn giấy toilet, nó chỉ là phương tiện cho em dùng.
Chuyên gia xem xét hành vi bằng cách thu thập những manh mối liên quan đến hành vi, rồi đặt ra giả thuyết vì sao có hành vi ấy, diễn trình này gọi là phân tích hành vi. Để làm vậy ta cần thu thập chi tiết về chuyện gì xẩy ra trước, trong và sau khi có hành vi. Những dữ kiện này cho phép ta xác định là có khuôn mẫu hay không cho hành vi, cùng đặt ra giả thuyết tại sao có hành vi.
Cách sau có thể hữu ích là bạn để ý hoặc ghi lại chi tiết như
– Hành vi gì xẩy ra.
– Ở đâu.
– Khi nào.
– Với ai.
Cách thu thập khác được gọi là ABC như sau:
– A (antecedent) là tiền sự, là chuyện gì xẩy ra ngay trước khi có hành vi; nó có thể gồm tất cả những cớ, dấu hiệu bực bội hay tính chất của môi trường chung quanh, thí dụ nhạc lớn tiếng, ánh đèn nhấp nháy hoặc chói chang, tiếng động ồn ào hoặc còi hú bất chợt v.v. Có em kinh hoảng với tiếng bong bóng nổ thình lình nên sau đó mỗi lần thấy bong bóng là em la hét.
– B (behaviour) là hành vi, và lời mô tả chuyện gì thực sự xẩy ra, hoặc hành vi trông như thế nào.
– C (consequence) là hệ quả của hành vi, hoặc chuyện gì xẩy ra ngay sau đó, gồm chi tiết về phản ứng của người khác đối với hành vi, và kết quả sau cùng cho trẻ.
Dựa vào những chi tiết này  bạn có thể tìm ra cách đối phó. Với hành vi phức tạp hoặc nghiêm trọng như tự hại thân hoặc có hại cho người khác, gây rủi ro, bạn nên hội ý với chuyên gia.
Có nhiều việc mà người tự kỷ gặp khó khăn khi muốn biết ý nghĩa của môi trường chung quanh, hay muốn tiếp xúc với người khác. Vì vậy, bước quan trọng để hiểu hành vi là có hiểu biết rõ ràng về những khó khăn liên kết với chứng tự kỷ, và đặc biệt hơn, là người tự kỷ bị ảnh hưởng như thế nào. Người tự kỷ và người có chứng Asperger gặp khó khăn thay đổi khác nhau, tùy mức độ của bệnh. Có người gặp khó khăn đáng kể, học khó và cần hỗ trợ ở mức cao; người khác có thể có óc thông minh trung bình và  gặp khó khăn ở mức  tế nhị hơn, nhưng cũng vẫn đáng kể.

3. Giải Quyết.
Khi cha mẹ tìm cách đối phó với hành vi và vấn đề mà hành vi gây ra, chuyện đầu tiên là xác định hành vi và điều cần thay đổi. Có lời khuyên là bạn chỉ nên:
– Bắt đầu với một hay hai chuyện mà thôi, không nhắm vào nhiều chuyện một lúc.
Khi bạn dạy con những cách giải quyết mới cho nhiều hành vi cùng một lúc, hệ quả có thể là con rối trí và không làm được cái nào, nhiều phần sẽ làm bạn tức bực thêm. Vậy hãy viết ra hết những hành vi mà bạn quan tâm, sau đó xếp đặt ưu tiên và chọn hai hành vi quan trọng nhất để chú tâm sửa đổi trước. Đừng lo nếu chuyện hóa tệ hơn trước khi trở nên tốt hơn, vì đây là phản ứng  tự nhiên khi trẻ không muốn thay đổi và ráng hết sức mình để giữ tình trạng y nguyên, trong khi bạn muốn sửa đổi.
– Bắt đầu với giới hạn nhỏ trước.
– Đi từ từ chậm rãi, không nên mong muốn đạt mục đích quá sớm.
Muốn giải quyết bất cứ vấn đề nào về hành vi, thông thường ta chọn hành vi nào gây lo ngại nhiều nhất, hoặc có ảnh hưởng đáng kể nhất cho đương sự. Lý do là khi làm vậy ta hiểu được hành vi mang lại điều gì cho người tự kỷ, tại sao họ duy trì hành vi ấy. Khi có hiểu biết thực sự vì sao hành vi xẩy ra, ta có thể tìm ra cách đáp ứng và đo lường được hiệu quả của nó. Ngược lại, khi tìm cách giải quyết nhiều hành vi trong một lúc chuyện có thể hóa ra khó mà đạt kết quả với hành vi nào.
Điều quan trọng khác cần nhớ là việc thay đổi hành vi cần thời gian; khó mà bạn thấy việc can thiệp có kết quả ngay tức khắc; điều lưu ý khác là khi đã chọn một cách đáp ứng thì nên có sự nhất quán. Nó có nghĩa ai có liên hệ với trẻ, trong nhà hay ở trường, đều xử sự cùng một cách mỗi lần có hành vi xẩy ra. Giữ sự nhất quán sẽ giúp người tự kỷ học được cách xử sự mới thuận lợi hơn.
Một khi bạn đã xác định được những yếu tố không chừng đã gợi nên và duy trì một hành vi nào đó, và suy đoán một giả thuyết về mục đích của hành vi đối với trẻ, bước kế là đặt ra cách can thiệp hay phản ứng thích hợp, giải quyết tận gốc nguyên nhân hay mục tiêu của hành vi đối với trẻ. Kế tiếp là tóm lược vài cách đối phó khác nhau bạn có thể dùng để sửa đổi hành vi gây bực bội.

● Ngăn ngừa hoặc có biện pháp tích cực.
Tâm điểm của bất cứ cách can thiệp nào về hành vi nên luôn luôn là việc phát  triển kỹ năng mới, để giúp trẻ đối phó với hoàn cảnh hay môi trường thuận lợi hơn, và tỏ cho biết được nhu cầu của em, bằng cách này hay cách khác như nói nếu biết nói, ra dấu nếu dùng ngôn ngữ bằng dấu, và dùng hình nếu không biết nói. Để thay đổi về hành vi duy trì được lâu dài, ta cần cho trẻ những cách khác nhằm đạt tới kết quả mà hành vi khi trước đã cho.
Sự cần thiết phải có kỹ năng thay thế cho hành vi gây khó chịu là nguyên do cho thấy trừng phạt  thường không có lợi. Bởi trừng phạt chỉ làm hành vi ngưng lại mà không dạy trẻ kỹ năng, không mang lại gì để thay thế cho hành vi, trẻ do đó sẽ phải tìm cách khác để tỏ ý và không chừng đó là hành vi khác tệ hơn. Thành ra ngăn cấm hành vi không thì chưa đủ, bạn phải dạy con hành vi mới tức kỹ năng mới để thay vào cái cũ, giúp em tỏ ý được hữu hiệu hơn.

● Cải thiện cách  liên lạc tỏ ý.
Khó khăn trong việc liên lạc tỏ ý là một yếu tố chính cho hành vi bất lợi nơi người tự kỷ. Nhiều hành vi bất lợi là kết quả của sự bực bội khi em không thể cho người khác hiểu mình muốn chi. Một số người tự kỷ nói giỏi và tỏ ra lưu loát, nhưng họ vẫn thấy khó mà tìm đúng chữ để nói cho bạn hiểu khi họ lo lắng hay bực bội; hoặc thấy khó mà hiểu điều người khác nói với họ.
Cải thiện cách  liên lạc tỏ ý của họ, và cách ta liên lạc tỏ ý với họ có thể là phần chính cho nhiều cách can thiệp về hành vi. Có nhiều phương thức có thể áp dụng để cải thiện cách  liên lạc tỏ ý và để hiểu người khác. Việc dùng phương thức này hay kia sẽ thay đổi tùy theo từng em, dưới đây là vài thí dụ.
– Cho em nhiều cơ hội càng nhiều càng tốt để  liên lạc tỏ ý và giao tiếp.
– Chọn ngôn ngữ thích hợp với mức hiểu biết của em. Với người tự kỷ nó đặc biệt có nghĩa bạn cần nói ngắn, gọn, với tên của em ở đầu câu; làm vậy sẽ bảo đảm được là em biết bạn nói với em. Nó cũng có nghĩa em không phải tự hỏi là mình cần nghe chi tiết nào trong câu. Nếu chỉ dẫn thì không nên nói nhiều bước mà chỉ nên có hai bước trong một câu. Đừng nói:
– Tới góc đường quẹo tay phải, qua hai đèn xanh đèn đỏ gặp trạm xăng bên trái thì vô.
mà hãy tìm cách khác. Ngoài ra ngôn ngữ không phải chỉ là lời nói, mà còn là ra dấu tay hay ngôn ngữ bằng dấu, là thẻ hình, là bảng liên lạc, vậy hãy chọn cách nào thích hợp nhất cho con bạn.
– Dùng hình để gợi ý như đồ vật, hình, biểu tượng, thẻ ghi chữ, bảng liên lạc hay thẻ ghi chỉ dẫn tùy mức hiểu biết của em.
– Tránh nói lời châm biếm, mỉa mai, bóng gió, ví von, hiểu ngầm như 'Ngày mai trời lại sáng'.
– Dùng chữ cụ thể, nhất là khi nói về ý niệm trừu tượng như thời gian, và phải nói rõ ràng. Thí dụ nếu bạn nói '2 giờ mình đi bơi', hãy vẽ ra đồng hồ chỉ hai giờ để con biết mà không nèo nẹo hỏi bạn chừng nào tới giờ, tránh cho bạn khỏi điên đầu vì bị hỏi hoài và cho con khỏi  lo lắng.
– Hãy tỏ ra tích cực khi có lời chỉ dẫn, tức không nói em đừng làm chuyện gì mà nói em cần làm chuyện chi.
– Cho em có thêm giờ để  hiểu, sắp xếp thông tin và lập lại nếu cần. Có em diễn giải lời nói khác hơn hay chậm hơn bình thường. Có thể cũng cần cho người tự kỷ có thêm giờ để đáp lại yêu cầu hay câu hỏi.
Chuyện quan trọng là với ai không biết nói, bị khó nói, ta cần cho họ cách khác để  liên lạc tỏ ý, thí dụ dùng hình, ngôn ngữ bằng dấu, bảng liên lạc (communication board), máy điện toán.
Người ta thấy hành vi thường được cải thiện khi em có thể cho  biết ý muốn của em, và biết ta muốn em làm gì.

● Dùng Hình ở Nhà.
Hình được dùng để giúp người tự kỷ  liên lạc tỏ ý với người khác và để hiểu thế giới chung quanh.  Việc dùng hình rất phổ biến  trong cách dạy trẻ tự kỷ, vì có lý thuyết cho rằng nhiều người tự kỷ học bằng mắt giỏi hơn là bằng tai, tức cho nhìn thấy thì em dễ nhớ, dễ hiểu hơn là cho nghe. Hình sử dụng ưu điểm ấy và có thể được áp dụng bằng nhiều cách. Hình là chữ nói chung, bao gồm:
- Đồ vật, cho trẻ nhỏ hay cho ai thiếu óc trừu tượng và cần phải có vật cụ thể mới nắm được ý.
- Hình chụp hoặc hình vẽ của vật.
- Thẻ ghi tên của vật 
- Biểu tượng, như vòng tròn đỏ có vạch xéo ngang qua là ý cấm.
Hai cách chót dùng cho trẻ lớn biết suy nghĩ trừu tượng. Khi áp dụng thì những cách sau thường được dùng mà bạn có thể thay đổi cho thích nghi với trường hợp riêng.
– Dùng thời biểu bằng hình để cho biết buổi sáng, trong ngày, hay trong tuần, trong tháng có việc gì, giúp em đối phó với khó khăn do không hiểu được ý niệm trừu tượng như thời gian, trình tự của việc, và sự lo lắng vì không hình dung được chuyện gì sẽ xẩy ra trong tương lai. Thời biểu bằng hình có thể dùng hình chụp hay vẽ, biểu tượng hay chữ tùy khả năng từng em. Dùng thời biểu còn tập cho em biết tự lập về nhiều mặt, em không cần được nhắc nhở để làm công chuyện, và còn có thể tự điều chỉnh sự lo lắng của em. vì biết thông lệ, biết chuyện gì xẩy ra chung quanh, có được phần nào chắc chắn sẽ có chuyện gì xẩy ra
– Hiểu ý niệm 'First – Then, Đầu tiên ... Kế đó'. Thí dụ, 'Đầu tiên con làm toán, kế đó con được chơi banh'.
– Đặt ra luật về hành vi, như 'Không được cắn'.
– Bầy tỏ cảm xúc, chuyện em muốn hay cần với người khác bằng cách chỉ vào hoặc đưa cho thấy biểu tượng.
– Cho em chọn lựa các vật hay sinh hoạt, như chọn giữa việc nhẩy bàn nhún trampoline hay đạp xe đạp.

● Viết Chuyện - Social Story
Phương pháp này do cô Carol Gray soạn ra tại Hoa Kỳ. Chuyện gồm những câu ngắn, mô tả một tình thế, sinh hoạt hay sự kiện nào đó, với chi tiết về ta cần làm gì trong cảnh ngộ ấy và tại sao. Chuyện cho đương sự vài ý niệm về em có thể phản ứng ra sao trong một tình cảnh riêng biệt (mua kem, đi xi nê, ra thư viện) và do đó cho khuôn mẫu về hành vi thích hợp để em làm theo.

● Xác Định Tình Cảm.
Nhiều người tự kỷ không hiểu người khác có cảm xúc gì, mà  có thể cũng không hiểu chính họ cảm xúc ra sao. Một lý do là tình cảm rất trừu tượng, thí dụ ta không thể thấy sự giận dữ hay vui mừng, như thấy con mèo, cái xe, và cần óc tưởng tượng để hiểu. Đây lại là yếu kém của chứng tự kỷ.  Xếp sự căng thẳng theo mức độ nhiều ít có thể là cách hay để giúp người tự kỷ xác định là họ và luôn cả người khác cảm thấy gì. Bạn vẽ ra bản đèn đường gồm năm mầu, hay có thang điểm từ 1 đến 5, làm vậy sẽ biến tình cảm thành ý niệm cụ thể hơn qua hình thức là mầu sắc con số. Thí dụ xanh lục là 'Con bình an', và đỏ là 'Con tức giận'.
Bạn cần nói chuyện để giúp con hiểu tức giận nghĩa là gì, bằng cách nói về những thay đổi cảm thấy trong cơ thể, như 'Khi con giận thì bụng con đau / mặt con đỏ lên / con muốn khóc'. Khi trẻ bắt đầu hiểu lòng an ổn và tức giận là hai thái cực đối với nhau ra sao, khi ấy bạn có thể giúp con hiểu những tình cảm nằm giữa  hai thái cực để có thể xác định được chúng. Hiểu biết này có thể giúp con tự làm mình dịu xuống, hoặc đi ra chỗ khác trước khi bị tức giận.

● Được Thoải Mái.
Người tự kỷ có khi thấy khó mà nghỉ ngơi thoải mái. Có người có sinh hoạt riêng như là cách để được thoải mái, người khác muốn ở yên một mình vài lúc ngắn trong ngày, để giúp họ buông xả. Người khác thích nhạc êm dịu hoặc đèn quay nhấp nháy. Khi biết điều nào làm con cảm thấy thoải mái, bạn có thể sắp xếp để thời biểu trong ngày có sinh hoạt đó vài lần cho con.

● Thay Đổi Khung Cảnh.
Một trong những cách hữu hiệu nhất để giúp người tự kỷ đối phó được với những vấn đề do các tật của bệnh gây ra là tạo khung cảnh có sắp đặt  rõ ràng và có tính hỗ trợ. Dưới đây là vài thí dụ về việc thay đổi môi trường chung quanh, giúp em đối phó và giảm rủi ro sinh ra hành vi bất lợi.

– Môi trường ít kích thích.
Như đã nói, người tự kỷ có thể gặp khó khăn trong việc diễn giải cảm nhận khác nhau từ ngũ quan. Vì vậy, có những điều trong khung cảnh chung quanh có thể tác động như là tác nhân gây bực bội lớn lao. Đôi khi loại bỏ vật trong khung cảnh có tiềm năng gây ra vấn đề thì dễ hơn là tìm cách thay đổi hành vi.
Khi kích thích về cảm quan được giảm thiểu trong khung cảnh chung quanh và sự giao tiếp như tiếng ồn và mùi hương, nó có thể làm giảm sự lo lắng, giúp em tập trung tư tưởng. Hãy tìm xem có kích thích khó chịu nào cho trẻ trong môi trường, như ánh sáng, mùi, mầu sắc, mức độ âm thanh, và có thích nghi hợp  lý để giảm thiểu ảnh hưởng của những kích thích đó, bởi người tự kỷ có cảm quan nhậy hơn khác thường, và họ có thể phản ứng mạnh mẽ với điều mà bạn không hề nghĩ có thể là vấn đề. Ít kích thích sẽ tới phiên chúng làm giảm hành vi gây khó chịu như nổi xung, ăn vạ. Kế tiếp, ở nhà hay ở trường có thể để một phòng riêng hoặc một góc trong lớp cho em vào đó bị kích thích quá độ làm em ngợp, tránh khung cảnh căng thẳng, chộn rộn và có cơ hội dịu xuống.

– Tạo qui củ cho môi trường.
Thay đổi khung cảnh và diễn trình để làm cho người tự kỷ biết chuyện gì sẽ tới, em phải làm gì, có thể cho em cảm giác an tâm vì biết được trình tự của chuyện. Thí dụ như dùng thời biểu bằng hình, dùng hình để tạo thông lệ, chỉ dẫn làm việc sao cho đúng. Cho biết rõ ràng em phải xử sự ra sao trong môi trường riêng biệt (nhà tắm, lớp học) có tác dụng mạnh làm giảm sự lo lắng. Tùy theo mức hiểu biết của em mà bạn có thể dùng hình thức chuyện kể (đặc biệt cho trẻ nhỏ) hoặc giao ước về hành vi cho trẻ tự kỷ khả năng cao hay AS. Giao ước là thỏa thuận viết ra giấy, trẻ và cha mẹ hay thầy cô ký tên, vạch ra qui tắc và hành vi phải theo trong khung cảnh nào đó.

● Gia Tăng Hành Vi Thuận Lợi.
Ta có thể khuyến khích việc tập để có kỹ năng mới qua cách ta đáp ứng với việc. Một số cách được thử và cho kết quả  khích lệ tức gia tăng hành vi muốn có, gọi là củng cố hành vi
Chuyện quan trọng khi ai học hành vi mới là nó được củng cố càng nhiều càng tốt. Có vài cách ta có thể làm để củng cố một hành vi, chẳng hạn dùng vật ưa thích để thưởng. Vật tăng cường hành vi có nhiều hình thức:
– Thực phẩm ưa thích.
– Đồ chơi hay vật ưa thích  (có tính cụ thể cho em nào quen suy nghĩ cụ thể).
– Sinh hoạt (dùng máy điện toán, vẽ).
– Lời khen, ôm hôn (cho em nào biết  quý chuộng cách biểu lộ này).
– Vật có liên hệ với cảm quan, như gối rung.
Vật hay sinh hoạt để thưởng cần có tính mới lạ, không thường có, và thỉnh thoảng cần thay đổi để em không chán, cũng như bạn cần để ý là điều củng cố hay thưởng phải có ý nghĩa đối với trẻ.
Việc thưởng để tăng cường sẽ có hiệu quả nhất khi được cho ra ngay sau lúc có hành vi thuận lợi, mong trẻ sẽ liên kết phần thưởng với hành vi hay kỹ năng và bắt đầu có hành vi hoặc dùng kỹ năng thường hơn; mới đầu thì mỗi lần có hành vi tốt đều được thưởng, sau đó lơi từ từ, thỉnh thoảng mới thưởng và lần hồi dứt hẳn. Xin đọc thêm chuyện Jessie với máy đếm trong quyển Để Hiểu Chứng Tự Kỷ. Khi thưởng nên đi kèm với lời khen mô tả rõ ràng hành vi mà bạn đang tăng cường, thí dụ ' Tùng biết thay phiên giỏi lắm'.

● Dùng vật biểu hiệu (token).
Đối với một số trẻ, dùng vật biểu hiệu có thể là cách rất hữu dụng để gia tăng việc có hành vi thuận lợi.  Đó là hình thức thưởng do tích tụ vật biểu hiện như ngôi sao, điểm v.v. Tự chúng không có tính tăng cường nhưng khi tích tụ có thể được trao đổi thành vật thưởng. Vật biểu hiệu thường có hiệu quả nhất cho trẻ tự kỷ khả năng cao, có kiên nhẫn chờ đợi phần thưởng và hiểu ý nghĩa của biểu hiệu. Bạn cũng cần phải có lời khen và khích lệ mỗi lần cho con biểu hiệu. Với hình thức này, hãy đặt rõ ràng ngay từ đầu cách thưởng, thí dụ mỗi lần có hành vi tốt thì được một ngôi sao; khi thu thập được 5 ngôi sao thì có thể đổi lấy thưởng như được chơi trò ưa thích bằng máy điện toán.
Ban đầu, muốn con học hành vi mới bạn có thể phải nhắc cho con làm xong công chuyện. Nhắc có thể bằng tay, bằng lời. Mục đích nhắm tới là con sẽ tự mình làm công chuyện không cần nhắc, vì vậy bạn phải lơi dần và rồi không nhắc nữa.
Thưởng không nhất thiết chỉ có khi con làm hành vi thuận lợi, mà bạn có thể thưởng khi con làm hành vi bất lợi nhưng ở mức độ ít hơn. Phưong thức này áp dụng cho những tật nặng khó mà chấm dứt ngay hoặc chấm dứt hoàn toàn, thí dụ những tật tự kích thích gọi là stimming (stim - self stimulation). Giả thử con có tật vỗ tay bôm bốp, bạn có thể đặt ra lệ là hễ vỗ tay ít hơn 5 lần trong bữa ăn, trong 10 phút v.v. thì được thưởng; rồi dần dần giảm bớt số lần hoặc tăng khoảng thời gian.
Cách nữa là thưởng cho bất cứ hành vi gì ngoài hành vi không muốn có trong một khoảng thời gian ấn định. Cách này được cho là đặc biệt hữu hiệu để giảm tật đã ăn sâu, hoặc tật con chống lại không chịu sửa. Thí dụ thưởng cho những hành động khác mà con làm trong 10 phút nhưng không thưởng cho việc vỗ tay trong lúc đó.

 

● Làm Ngơ.
Cố ý làm ngơ là cách được dùng khi ta làm ngơ hành động bất lợi, nhưng không làm ngơ đương sự. Cách này dựa trên ý tưởng là  hành vi nào được sự chú ý của người khác như có lời đáp lại dù là lời trách mắng, tức được thưởng, sẽ có khuynh hướng được duy trì, tái diễn. Trẻ có khi muốn được cha mẹ lưu tâm mà không biết cách nên quậy phá chỉ với mục đích là được người khác ngó tới, chú ý đến mình. Nay nếu làm vậy mà không được chú ý, không đạt tới mục tiêu thì nhiều phần là trẻ sẽ không làm nữa.
Làm ngơ cần đi kèm với những cách khác như có thưởng, hoặc dạy trẻ tỏ ý theo cách khác để có được kết quả mong muốn (thí dụ đưa hình của vật mong muốn thay vì ăn vạ, lăn ra đất la khóc). Nói khác đi, muốn cho cách này có hiệu quả ta cần đáp ứng và củng  cố hành vi thuận lợi của em, cùng lúc đó không đáp ứng với hành vi không thuận lợi.
Bạn cần chuyên nhất khi áp dụng cách làm ngơ, tức là phản ứng trước sau như một không thay đổi. Thông thường, khi mới áp dụng thì hành vi của trẻ sẽ gia tăng rồi sau đó mới giảm bớt, giống như ngọn lửa sắp tàn sẽ bùng lên trước khi tắt; nhìn theo quan điểm của trẻ thì dường như em suy luận rằng 'La khóc có hiệu quả từ trước đến nay, bây giờ làm mạnh hơn thì có thể được việc như trước'. Như thế sự chuyên nhất rất quan trọng ở điểm này, bằng không, bạn nhượng bộ thì trẻ sẽ học được là gia tăng hành vi bất lợi sẽ mang lại kết quả (la khóc một phút không làm động lòng cha mẹ thì nay la khóc lâu hơn). Lần này bạn nhượng bộ thì lần sau trẻ cũng có thể gia tăng hành vi ấy.
Làm ngơ có thể được dùng cho nhiều hành vi, tuy nhiên bạn không nên dùng cho hành vi tự hại thân, hoặc có nguy cơ gây hại cho người khác, như hành vi hung bạo.

● Chuyển Hướng.
Chuyển hướng chú ý của trẻ đến đề tài nói chuyện hoặc sinh hoạt mà em ưa thích có thể là cách rất hiệu quả, để ngăn chặn sự leo thang và hóa giải tình trạng khó khăn. Muốn làm vậy bạn cần có một số sinh hoạt làm dịu trẻ, hoặc làm em chia trí để áp dụng khi thấy em bắt đầu chộn rộn, giận dữ, tỏ vẻ khổ sở. Mỗi trẻ sẽ lộ ra dấu hiệu riêng của em khi bị căng thẳng hay tức giận, và mọi người trong gia đình cùng với thầy cô nên biết để sẵn sàng chuyển hướng  chú ý của em sang hành vi làm em dịu xuống. Các dấu hiệu này thường là văng tục, đi hung hăng tới lui, cắn tay, nói một mình.

● Ngồi Một Mình - Time out.
Trẻ được cho ngồi một mình hoặc tại chỗ hoặc ra chỗ khác; đây là cơ hội cho em dịu xuống qua việc giới hạn kích thích do môi trường sinh ra, nó cũng giúp cho trẻ biết tự chế, tự điều chỉnh  mình. Nếu dành một chỗ riêng để trẻ ngồi một mình, điều rất quan trọng là nơi ấy được an toàn, không có nguy cơ gì về việc tự hại thân, và bạn phải có thể quan sát được trẻ một cách kín đáo trong suốt thời gian để bảo đảm là em được an toàn. Lẽ tự nhiên là nơi này không có vật gì thú vị đối với em. Bạn cần nói cho con hay tại sao em phải ngồi một mình. Thời gian trung bình là vài phút và khi con tỏ ra bớt chộn rộn quậy phá thì bạn cần khen và khuyến khích. Khi em được cho ra trở lại, bạn nên cho em làm sinh hoạt yên lặng, không sôi nổi và khi em có hành vi thuận lợi thì bạn cần khen thưởng ngay.

 

● Những điểm khác.
– Nhất quán.
Một trong những điều quan trọng nhất khi tìm cách đối phó với hành vi là khi đã chọn áp dụng cách nào rồi thì bạn và gia đình, trường học cần có thái độ nhất quán, trước sau như một. Nếu những ai can dự đến người tự kỷ không đồng lòng áp dụng cùng một phương thức thì khó mà có thay đổi hoặc thay đổi được duy trì lâu dài. Nếu thấy là khó mà giữ được sự nhất quán trong cách áp dụng thì nên coi lại, có sửa chữa cần thiết.
– Bớt thưởng từ từ.
Mục đích cuối cùng cho mọi cách can thiệp về hành vi là thúc đẩy cho người tự kỷ được độc lập, tự lo thân và đời sống có phẩm chất. Để nhắm tới điều ấy, việc nhắc nhở và thưởng  không kể lời khen phải giảm từ từ cho tới khi mất hẳn, nếu được, mà vẫn duy trì hành vi thuận lợi.
– Không phải lỗi bạn.
Tuy làm như bạn chịu trách nhiệm cho hành vi của con, thực ra hành vi không trực tiếp do bạn gây ra, và nó cũng không phải là kết quả của việc không biết cách dạy con. Lại nữa bạn không phải là người duy nhất gặp cảnh này. Chuyện dễ hiểu là nhiều cha mẹ cảm thấy như họ có trách nhiệm, nhất là khi hành vi chỉ xẩy ra ở nhà và không hề có ở trường. Khi những ai can dự vào chuyện mà không hành động nhất quán, chuyện sẽ gây ra hoang mang, căng thẳng và bực bội cho trẻ tự kỷ, và có thể làm cho việc sửa đổi hành vi hóa khó hơn.
– Kiên nhẫn.
Hành vi người tự kỷ thường không thay đổi chỉ trong vài ngày. Bạn sẽ cần phải kiên nhẫn và trì chí trong một thời gian trước khi thấy có thay đổi. Kết quả thường không hiển hiện ngay lập tức. Có đề nghị là bạn ghi nhật ký  hành vi của con, làm vậy giúp bạn nhận ra dễ hơn những thay đổi nhỏ tốt hơn, từ từ xẩy ra.
– Tập thể dục.
Thể dục có thể là cách rất hay để giải tỏa sự căng thẳng và quên sự bực bội. Nghiên cứu thấy rằng tập đều đặn trong ngày có thể sinh ra ảnh hưởng tích cực hơn về hành vi nói chung. Nhiều trẻ tự kỷ thích nhẩy bàn nhún trampoline.
– Hãy thực tế.
Khi tìm cách giải quyết bất cứ hành vi nào, hãy chọn chương trình thực tế và mục tiêu có thể đạt được.  Khi đặt mục tiêu không thể đạt được là bạn tự mang lại sự bực bội, lo lắng cho mình nhiều hơn là hành vi muốn sửa đổi gây cho bạn.
– Dùng kỹ năng mới trong những cảnh khác nhau.
Người tự kỷ thấy khó mà tổng quát hóa những kỹ năng mới học cho một khung cảnh và nay áp dụng cho khung cảnh khác. Vì vậy điều quan trọng là hãy khuyến khích con dùng bất cứ kỹ năng mới nào đã học được vào càng nhiều khung cảnh khác nhau càng tốt.
– Hãy xem là con vẫn còn nhớ kỹ năng.
Thỉnh thoảng bạn cần xem là cách giải quyết khi trước về hành vi nay vẫn còn hiệu quả, tức xem chắc là con vẫn còn nhớ cách dùng chúng. Hành vi có thể tái lại khi con bị căng thẳng, đau ốm hoặc có thay đổi trong nhà hay trường.

● Những Khó Khăn.
– Liên Lạc Tỏ Ý
Những khó khăn về mặt này có thể được biểu lộ như sau:
- Không có khả năng tỏ cho người khác biết mình muốn gì và cần gì như bị đau đớn, đói khát, khó chịu, bực bội, có thể sinh ra hành vi như là cách để  liên lạc tỏ ý, hoặc là cách đạt tới mục tiêu mong muốn.
- Khó khăn trong việc hiểu lời người khác có thể làm bực bội, lo lắng và hoang mang. Những điều này có thể hóa tệ hơn, do phản ứng của người khác với điều mà họ cho là không thuận theo đòi hỏi hoặc chỉ dẫn.
- Có vấn đề về diễn giải thông tin không lời, như nét mặt và điệu bộ thân hình.
- Chúng có thể đóng góp vào việc hiểu lầm, tạo nên một loạt phản ứng bằng hành vi.
- Diễn giải ngôn ngữ theo nghĩa đen, chỉ biết suy nghĩ  cụ thể, có thể làm rối trí và khổ sở khi diễn dịch ngôn ngữ người khác, và có thể dẫn tới hành vi không thích hợp.

– Cảm Quan
Vài hành vi có thể do cảm quan gây ra:
- Kích thích quá độ cho một hay nhiều cảm quan có thể sinh ra chộn rộn, khổ sở, lo lắng, rối trí, dẫn tới  hành vi bộc phát như là cách để đối phó với sự khó chịu này.
- Không có đủ kích thích cho một hay nhiều cảm quan có thể gây ra hành vi như là cách để có được thăng bằng. Việc tự kích thích hay hành vi lập đi lập lại (xoay người như chong chóng, nhẩy cẩng hoặc búng đồ vật) có thể là cách để có được kích thích cho một cảm quan riêng biệt.
- Thiếu nhậy cảm với xúc giác có thể làm người ta chịu được nóng hay lạnh cao độ

4. Tự Hại Thân.

Ta sẽ nói tổng quát về hành vi này, các nguyên nhân có thể có và cách can thiệp. Tự hại thân là một trong những hành vi khó nhất và gây lo lắng nhất mà gia đình và người tự kỷ phải đối đầu. Thường khi, chúng có nguyên nhân phức tạp và mức độ rủi ro cho sự an toàn và an sinh của người tự kỷ có thể cao. Cách can thiệp thông thường về hành vi có khi không thích hợp, nên điều quan trọng là bạn mang con đến gặp chuyên gia để giải quyết vấn đề nếu cần.
Hành vi tự hại thân nói về bất cứ việc làm nào mà người tự kỷ gây hại hoặc gây thương tích cho chính mình. Nó có nhiều hình thức:
–  Đập đầu lên sàn, tường hoặc mặt phẳng khác.
–  Cắn bàn tay hay cánh tay.
– Kéo tóc,
– Móc mắt,
– Vả mặt hay đánh vào đầu.
– Cậy da, cào hay nhéo, rứt da.
– Lắc đầu dữ dội.
Người tự kỷ khả năng thấp, có nhiều khuyết tật thường hay có hành vi tự hại thân, nhưng nói chung người tự kỷ và ở mọi lứa tuổi cũng có thể có hành vi này vào một lúc nào đó. Trẻ nhỏ có hành vi như vậy khi lớn lên có thể lập lại chúng khi bị căng thẳng, đau ốm hay có thay đổi.

Các nguyên nhân có thể có.
Lý do cho hành vi tự hại thân có nhiều và thay đổi, và thường gồm nhiều yếu tố tương tác phức tạp với nhau. Việc đập đầu có thể khởi sự như là cách để có kích thích cảm quan, về sau phát triển thành cách để tránh lời yêu cầu làm điều không muốn. Sau đây là những lý do có thể có mà bạn cần xét tới khi tìm hiểu về hành vi tự hại thân.

● Vấn Đề về Y khoa và Nha khoa
Điều đầu tiên và có lẽ quan trọng nhất khi tìm hiểu về hành vi loại này là thăm dò, để loại bỏ những vấn đề về y khoa và nha khoa mà trẻ có thể có. Trẻ tự kỷ có thể không nói giỏi, không thể cho người khác biết là có gì đó không ổn cho sức khỏe, và hành vi tự hại thân như đập đầu, đánh vào tai có thể là cách em đối phó với sự đau đớn hay là cách tỏ ý bị khó chịu trong người. Dưới đây là vài thí dụ về các vấn đề y khoa và nha khoa có thể là nguyên do hoặc biểu lộ bằng hành vi tự hại thân.
– Đau ốm, thí dụ như cảm, cúm, nhiễm trùng hốc mũi, tai hoặc niếu đạo.
– Đau nhức, như đau tai, nhức đầu, đau răng, đau bụng trước ngày có chu kỳ,
– Động kinh cho một vài loại kinh phong.
– Sức khỏe không tốt nói chung, như táo bón, trục trặc bộ tiêu hóa, có bệnh da.
và lý do khác:
– Muốn có thêm hay giảm bớt kích thích về cảm quan.
Có ý kiến cho rằng hành vi tự hại thân không chừng là cách để có được kích thích, nhất là khi người tự kỷ có mức chịu đau cao, hoặc ngược lại để đối phó với việc có cảm nhận quá nhiều làm choáng ngợp. Thí dụ đập đầu có thể giúp làm chặn lại kích thích thính giác khó chịu như tiếng chó sủa, hay tiếng máy cắt cỏ gây đau đớn.

 ● Liên Lạc Tỏ Ý.
Nhiều hành vi tự hại thân xẩy ra nơi người không có cách nào để cho ai khác biết về nhu cầu, điều họ muốn và cảm xúc của  họ. Ai đập đầu lên một mặt cứng sẽ được người khác đáp ứng rất lẹ làng, đó có thể là sự chú ý của người khác, đồ vật hay sinh hoạt mà em ưa thích, hoặc khiến em bị đòi hỏi ít hơn.
Với người khác, đánh tay vào đầu có thể là cách để tỏ ý bực bội; người khác nữa thì thấy cắn bàn tay giúp họ đối phó được với sự lo lắng hay phấn khích; và có người thì cào da trên thân hay bấu mắt là có thể là cách đáp ứng lúc không có kích thích hay buồn chán.
Do phản ứng của người khác, trẻ tự kỷ học được rằng hành vi tự hại thân là cách rất mạnh để kiểm soát tình cảnh. Theo cách đó, thoạt tiên hành vi tự hại thân thí dụ đánh vào đầu là cách đáp ứng với việc đau nhức thân hình, hoặc có cảm giác khó chịu, rồi về sau thành lệ được dùng để tránh tình trạng không muốn, như đòi tắt ti vi vì tiếng động làm em khó chịu.
Vài hành vi tự hại thân có thể là dấu hiệu của bệnh tâm thần như sầu não hay lo lắng, nhất là cho người tự kỷ khả năng cao hay ai có hội chứng Asperger.

● Cách Đối Phó.
Sau đây là vài ý tưởng tổng quát về cách ngăn ngừa và đáp ứng với hành vi tự hại thân. Nếu người tự kỷ có hành vi tự hại thân nghiêm trọng, lời khuyên mạnh mẽ cho bạn là nhờ chuyên viên trợ giúp.

a. Cách Ngăn Ngừa.
– Loại trừ nguyên do về y khoa và nha khoa.
Hãy đến nói chuyện với bác sĩ gia đình để thảo luận vấn đề và nếu cần thì xin giấy giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa. Hãy mang theo giấy ghi chi tiết về hành vi ngày giờ xẩy ra chuyện, trong hoàn cảnh nào, xẩy ra thường như thế nào, bắt đầu hồi nào, kéo dài bao lâu. Chi tiết sẽ giúp bác sĩ xác định là có nguyên do về thể chất hay không cho hành vi.

– Phát triển kỹ năng  liên lạc tỏ ý.
Hãy dạy trẻ những cách khác thích hợp hơn cho việc bầy tỏ ý muốn, nhu cầu và sự đau đớn của thân thể hoặc cảm thấy khó chịu. Dùng hình là cách rất hiệu quả cho người tự kỷ không biết nói hoặc nói không giỏi, vì hình có thể được dùng trong nhiều hoàn cảnh, và đặc biệt hữu dụng để cho biết có đau ở thân thể hoặc có bệnh.

– Tạo khung cảnh có sắp xếp kỹ và có thông lệ.
Hãy tạo thông lệ hằng ngày rõ ràng cho người tự kỷ để làm tăng việc tiên liệu chuyện gì sẽ tới, và nhờ vậy giảm thiểu sự lo lắng. Bạn hãy có nhiều sinh hoạt trong thông lệ, chúng giúp làm giảm sự buồn chán và giới hạn cơ hội có hành vi tự hại thân. Hãy soạn công việc làm cho những lúc khó khăn trong ngày, thí dụ khi con mệt mỏi dễ bị cáu kỉnh thì nên có loại sinh hoạt ít đòi hỏi và là điều mà con ưa thích. Trong những lúc này, cần gia tăng việc sắp đặt khung cảnh ngăn nắp, có trông coi kỹ hơn và hỗ trợ cho trẻ nhiều hơn trong lúc làm sinh hoạt.

– Cho cơ hội có kích thích cảm quan.
Nếu trẻ có hành vi tự hại thân để có được kích thích cảm quan, hãy tìm sinh hoạt khác cho em kinh nghiệm tương tự và đem các sinh hoạt này vào thông lệ của em. Nhẩy bàn nhún trampoline hay chơi đu có thể cho kích thích mà em cần cho hệ tiền đình (có thể việc lắc đầu nguầy nguậy hoặc đánh vào đầu khi trước cho em các kích thích này). Hãy cho em một túi có vật ăn được hoặc an toàn để nhai như kẹo cao su, cà rốt, nui khô, nho khô. Việc nhai các món này cho em cảm giác khác nhau về cảm quan, và có thể làm giảm nhu cầu cắn bàn tay hay cánh tay.

– Tập thể dục.
Nghiên cứu gợi ý là tập thể dục thường xuyên không những cải thiện đáng kể mặt tình cảm và sức khỏe thể chất, mà còn có thể giảm bớt hành vi tự hại thân. Tập thể dục có thể gồm những sinh hoạt như chạy bộ, bơi lội, đạp xe, nhẩy bàn nhún, khiêu vũ và aerobics; nên tập ít nhất ba lần một tuần. Bạn hãy tìm hiểu con thích điều gì và chọn những sinh hoạt nào có thể đem vào thông lệ hằng tuần cho con. Trong vài trường hợp, có thể chuyện quan trọng là hỏi ý kiến của chuyên viên y tế hoặc có hỗ trợ của người huấn luyện trước khi bắt đầu chương trình mới về tập thể dục.

– Có thưởng cho hành vi thích hợp.
Hãy nhớ thưởng khi con có hành vi thích hợp, và thưởng cho những lúc mà trẻ không có hành vi tự hại thân trong ngày. Làm vậy giúp trẻ học được rằng những hành vi khác, thích hợp hơn mang lại kết quả tích cực hơn và do đó em sẽ làm nhiều hơn hành vi này, đối lại với hành vi tự hại thân. Thưởng có nhiều hình thức, như lời khen, có chú ý, sinh hoạt mà em ưa thích, đồ chơi, hoặc một lượng nhỏ thức ăn hay uống mà em ưa thích. Hãy xem kỹ là bạn nói rõ ràng tên hành vi bạn muốn thưởng, để giúp trẻ học và ý thức. Thí dụ:
- Thanh, đứng xếp hàng chờ giỏi lắm !
và hãy có thưởng ngay lúc ấy sau khi có hành vi bạn muốn em có. Điều cần biết là vài trẻ tự kỷ không muốn được chú ý; người như vậy có thể bực bội khi được khen và làm họ ngưng không làm hành vi đó nữa trong tương lai.

b. Cách Phản Ứng.
Ta phải làm gì khi hành vi xẩy ra.

● Điều thiết yếu là can thiệp sớm và đáp ứng mau lẹ đối với chuyện tự hại thân để bảo đảm sự an toàn. Ngay cả khi hành vi có tác dụng là được người khác chú ý , không bao giờ nên làm ngơ hành vi tự hại thân nặng nề. Cách đáp ứng thích hợp sẽ thay đổi tùy theo hành vi và sau đây là vài chỉ dẫn tổng quát.
● Đừng làm lớn chuyện. Giữ cho việc đáp ứng với hành vi tự hại thân ở mức thấp bằng cách giới hạn lời  phê bình, nét mặt, và những cách bầy tỏ khác về cảm xúc, vì các biểu lộ này có thể tăng cường hành vi ngoài ý muốn của ta. Cố gắng nói ôn hòa, rõ ràng và giữ nét mặt bình thản, tự nhiên. Loại trừ nguyên do có hành vi bằng cách giảm bớt đòi hỏi. Nếu trẻ thấy khó mà đáp ứng được với đòi hỏi em phải làm (có thể là công việc quá khó cho em, hoặc em không thể làm xong chuyện vào lúc ấy), hãy giảm bớt đòi hỏi đối với em, hoặc ngưng lại hẳn việc em phải làm. Quay trở lại chuyện ấy về sau khi trẻ được bình tĩnh hơn.
● Loại trừ hoặc làm giảm kích thích không dễ chịu cho cảm quan, như tiếng ồn, mùi hay đèn chói mắt. Giải quyết những khó chịu cho cơ thể như cho uống thuốc nếu trẻ bị nhiễm trùng.
Điều quan trọng cần nhớ là khi dùng bất cứ cách đối phó nào thì bạn cũng cần cho trẻ cơ hội để học kỹ năng  liên lạc tỏ ý thích hợp hơn về nhu cầu của em, và để tự điều chỉnh mức căng thẳng và lo lắng của mình.
● Tìm cách làm em chú ý với việc kêu tên của em, cho chỉ dẫn giản dị về em phải làm gì thay cho hành vi tự hại thân, thí dụ nói
- David, bỏ tay xuống'.
Xin nhắc lại là hãy giữ phản ứng của bạn đối với các hành vi này ở mức tối thiểu, bằng cách giới hạn sự biểu lộ của nét mặt, giữ giọng nói bình thường, từ tốn. Dùng hình để hỗ trợ cho chỉ dẫn.
● Lập tức hướng trẻ đến sinh hoạt khác làm em không thể có hành vi tự hại thân, như sinh hoạt nào cần hai tay, và có lời khen, có thưởng ngay khi em có hành vi thích hợp. thí dụ nói:
- David, con chơi xe lửa giỏi lắm.
● Có thể cầm tay  em chỉ dẫn nhẹ nhàng nếu em khó mà ngưng lại hành vi. Thí dụ dùng lực càng ít càng tốt để nhẹ nhàng đưa tay em ra chỗ khác, không đụng vào đầu. Lập tức hướng chú ý của em tới chuyện khác, và chuẩn bị can thiệp tiếp nếu em tìm cách tái diễn hành vi tự hại thân. Cách này cần áp dụng hết sức cẩn thận, vì nó có thể làm hành vi leo thang, hoặc khiến trẻ có hành vi nhắm vào người khác.
● Có hàng rào ngăn chặn giữa trẻ và vật có thể gây hại.
Vài thí dụ như sau.
– Đặt cái gối giữa đầu và tay của em trong trường hợp trẻ lấy tay đánh đầu. Nếu hay cắn bàn tay hoặc cánh tay, cho em vật khác để cắn.
– Với tật đập đầu lên mặt phẳng cứng, có sẵn gối để chêm vào giữa mặt phẳng và đầu của trẻ. Hoặc tạm thời để đệm lên sàn hay dựa tường để làm giảm thiểu việc gây thương tích.
– Hãy có chỗ an toàn, như một góc trong lớp hay một phòng trong nhà.
● Gọi điện thoại nhờ giúp.
● Kềm hãm thân thể.
Có hành vi tự hại thân tạo rủi ro lớn lao cho trẻ. Trong trường hợp đó, cha mẹ nên xem xét những cách làm kềm hãm thân thể như mũ an toàn để bảo vệ trẻ không bị thương tích. Tuy nhiên chỉ dùng cách này khi chuyên gia đề nghị để bảo đảm là cách thức được an toàn và thích hợp; cũng như nên dần dần lơi bớt rồi bỏ hẳn. Ngoài việc đáng quan tâm là nếu dùng không đúng cách có thể gây nguy hại đáng kể về sự an toàn và sinh ra quan tâm về đạo đức, trong vài trường hợp việc kềm hãm có thể thực sự làm tăng hành vi tự hại thân. Mặt khác, kềm hãm không thực sự giải quyết nguyên nhân của hành vi, nên điều thiết yếu là không bao giờ nên dùng cách ấy một mình, không đi kèm với việc tập cho trẻ các kỹ năng mới để giải quyết mục tiêu mà hành vi nhắm tới.

● Dùng thuốc.
Có chứng cớ gợi ý rằng một số thuốc tỏ ra hữu ích trong việc làm giảm hành vi tự hại thân cho một số người. Giống như việc kềm hãm thân thể, thuốc nên được xem như là cách chót hết trong việc giải quyết tật, và không bao giờ nên dùng mà không tập cho trẻ kỹ năng mới, cũng như chỉ dùng thuốc theo lời chỉ dẫn của chuyên viên y khoa.

Tóm tắt:
– Loại bỏ nguyên do y khoa hay nha khoa của hành vi.
– Tìm hiểu về vai trò của hành vi nơi trẻ. Em có hành vi ấy để có lợi gì, nhằm mục đích gì. Ghi sổ những lần có hành vi, trường hợp xẩy ra và hệ quả (ABC) có thể giúp bạn hiểu được điều này.
– Giúp trẻ làm cách khác thích hợp hơn để cho biết em muốn gì, cần gì, cảm xúc điều chi và việc khó chịu của cơ thể.
– Làm cho khung cảnh có quy củ hơn, có thông lệ trong cuộc sống của trẻ, và bảo đảm trẻ có nhiều sinh hoạt đầy kích thích trong ngày, kể luôn cả kích thích về cảm quan.
– Thường xuyên khuyến khích trẻ có hành vi thích hợp trong ngày, và cũng khen luôn những lúc em không có hành vi như thế.
– Đáp ứng mau chóng và y như nhau mỗi lần có hành vi xẩy ra, bằng cách chặn đứng (dùng lực nhẹ hoặc dùng vật ngăn ngừa nếu cần, và hướng trẻ đến sinh hoạt khác. Nói ngắn gọn, dùng tên con ở đầu câu.
– Nhờ chuyên viên cố vấn cho hành vi nào khó giải quyết, hoặc có sự chống đối khi can thiệp, hoặc bất cứ hành vi nào gây rủi ro và nguy hại cho trẻ.
Hành vi khó chịu thường do sự lo lắng gây ra, nó là kết quả của việc bị khó khăn có liên quan đến bộ ba khiếm khuyết của chứng tự kỷ. Ngay cả hành vi hung bạo khi phân tích ra thường thấy là nhắm đến một mục đích nào đó hơn là cố tình muốn gây hại.

5. Cắn.
Nguyên do có thể có cho tật hay cắn.
– Có khó khăn trong việc  liên lạc tỏ ý.
Cho ai không biết nói, không thể cho hay họ muốn gì, cần gì, cảm xúc ra sao một cách hiệu quả, cắn là cách hữu hiệu bậc nhất để cho người khác biết là có chuyện không ổn, và do vậy là cách tỏ ý thật hữu dụng và mạnh mẽ.
– Hành vi học được.
Tất cả chúng ta đều học từ kinh nghiệm đã qua, và dùng hiểu biết đó để xử sự trong tương lai. Nếu thấy xử sự theo một cách nào đó mang lại kết quả thì nhiều phần ta sẽ xử sự y vậy tiếp. Rồi cũng có người thích có phản ứng của người khác khi họ cắn, như kêu to ngăn cản hay tỏ ra bực bội. Họ có thể thích nghe lời cao giọng hoặc ưa thích thấy việc diễn ra như đã dự trù.
– Bực dọc hay khổ sở.
Đôi khi cắn có thể là biểu hiện cho việc chỉ vì bực bội hay khổ sở khi bị  nhiều áp lực khác nhau trong tình trạng khó khăn. Điều quan trọng cần nhớ là cuộc sống đôi lúc có thể hết sức choáng ngợp cho người tự kỷ, mà để đối phó họ chỉ biết cắn.
– Muốn có cảm giác.
Một số người tự kỷ có vấn đề về cảm giác, và việc nhai, cắn là hành động có tính tạo cảm giác sâu. Có nghĩa nó cho đương sự biết những phần khác nhau của cơ thể đang làm gì vào những lúc khác nhau. Cắn còn có thể sinh ra kích thích cho miệng.
– Đau răng hay đau hàm.

● Cách Đối Phó.
– Loại trừ lý do sức khỏe hay về răng.
Xem kỹ là đương sự, nhất là ai không biết nói, không dùng việc cắn như là cách đáp ứng cho đau đớn cho thân xác như đau răng hay đau hàm. Tốt hơn hãy nhờ nha sĩ hay bác sĩ gia đình khám để  biết chắc là không có lý do về thân xác cho hành vi.

– Phân tích.
Hãy đi tới gốc của vấn đề, coi xem tại sao có tật. Tìm hiểu là chuyện tối cần để nghĩ ra cách đối phó tốt nhất với hành vi. Để làm vậy có một cách là ghi lại những gì liên quan đến hành vi lúc trước, trong khi và sau khi chuyện xẩy ra (ABC). Ghi chú này giúp xác định manh mối tại sao có hành vi. Vài người nhất là thiếu niên và người lớn tự kỷ khả năng cao hay AS biết nói giỏi có thể cho biết lý do họ cắn, hoặc bằng lời hoặc bằng hình.

– Cải thiện cách  liên lạc tỏ ý.
Giúp đương sự có được cách khác, thích hợp hơn để  liên lạc tỏ ý nhu cầu, ước muốn, việc thân thể không thoải mái và tình cảm. Hình có thể rất hữu hiệu cho người tự kỷ vì chúng có thể được dùng cho nhiều trường hợp, và đặc biệt giúp ích để cho biết có đau trên người hay cho biết tình cảm. Viết chuyện cũng có ích, để mô tả tại sao không nên cắn, và mô tả điều người ta có thể làm thay vì cắn.

– Thay đổi khung cảnh.
Hãy xếp đặt lại khung cảnh nào mà đuơng sự thấy là khó khăn, và có thích nghi cần thiết với môi trường, như làm giảm tối thiểu những kích thích không dễ chịu về cảm quan, giảm số người, làm thời biểu chặt chẽ, và theo thông lệ quen thuộc khi nào được.
Ống nhai là khối cao su hình ống, chất này an toàn, không độc, rửa được, cho trẻ mút hoặc nhai, và có sức kháng cự tốt đẹp cho ai cần có kích thích cảm quan bằng cách cắn. Nghiên cứu thấy việc nhay trong miệng làm người ta dịu xuống, chú tâm hơn và chịu sắp xếp thứ tự hơn, cũng như có tác động làm giảm căng thẳng. Cách khác nữa là làm một túi có những món cho nhiều kích thích khác nhau về cảm quan, như trái cây khô, nui khô cho đương sự dùng.

– Tập đối phó với sự giận dữ và học cách làm thoải mái.
Người tự kỷ có thể thấy khó mà giải quyết các tình cảm như căng thẳng, lo âu và bực bội, dẫn tới sự bùng nổ thành việc cắn. Vì vậy ta có thể giúp bằng cách cho em học nhận biết những dấu hiệu hay cảm giác của thân thể, cho biết mình bắt đầu lo lắng, và rồi soạn ra những sinh hoạt khác thích hợp hơn để làm em dịu xuống. Thí dụ như thở vài hơi sâu, đếm tới 10, đi một vòng, nghe nhạc, bỏ đi chỗ khác, hoặc hỏi xin giúp đỡ. Bạn có thể nhắc:
- Sarah, con dịu xuống, thở sâu ba cái đi.
Những cách làm thoải mái như nghĩ chuyện vui, làm điều khác dễ chịu (như đi tắm, chơi computer, chơi đu, nhẩy bàn nhún trampoline) cũng có thể hữu ích.

– Hướng dẫn.
Chỉ cho em làm sinh hoạt khác hoặc đi tới chỗ khác có ít cơ hội để cắn, và khi có hành vi đầu tiên thích hợp hơn thì cho khuyến khích ngay,thí dụ:
- Hùng ngồi yên đọc sách giỏi lắm

– Tăng cường hành vi tốt.
Điều quan trọng là để ý tới những lần em có hành vi mà ta muốn, để khuyến khích em học những hành vi khác thích hợp hơn dẫn tới kết quả tốt đẹp. Việc thưởng có thể là lời khen, sự chú ý, cho làm sinh hoạt mà em ưa thích, đồ chơi, món ăn hay thức uống em thích nhưng với lượng nhỏ. Hãy nói rõ hành vi mà bạn thưởng, Thí dụ:
– Sơn biết chờ tới phiên hay lắm.
Cách nói rõ hành vi mỗi lần khen được gọi là dán nhãn (labelling), và lời khen có dán nhãn có dụng ý cho em hiểu rõ được khen về chuyện gì. Lý do là trẻ tự kỷ không hiểu ý ngầm mà thường là hiểu nghĩa đen, bạn không thể mong con hiểu bạn muốn nói gì khi dùng chữ nghĩa bóng, do đó cần nói tách bạch vì sao em được khen.

– Phản ứng mau lẹ và nhất quán với hành vi.
Giữ cho phản ứng ở mức tối thiểu về việc cắn bằng cách giới hạn lời nói, sự biểu lộ trên nét mặt và những cách bầy tỏ tình cảm khác, vì chúng có thể làm tăng cường hành vi ngoài ý muốn. Hãy nói ôn tồn, rõ ràng, và giữ nét mặt bình thản.

● Trừng Phạt không có Hiệu Quả.
Trừng phạt nói đến việc gây khó chịu hoặc không cho có sinh hoạt thông thường hay vật ưa thích để làm giảm hành vi khó chịu. Vài hình thức trừng phạt có thể kể là:
– Đánh, tát.
– Quát to, trách mắng, lớn tiếng.
– Dùng chất làm khó chịu như xịt nước, xịt nước cốt chanh.
– Dùng cách kềm hãm thân thể.

Nghiên cứu trong những năm gần đây thấy là dùng sự trừng phạt như là cách đáp ứng với hành vi khó chịu thường không có hiệu quả. Vài lý do được ghi sau đây.
– Trừng phạt không giải quyết tận gốc hành vi. Ngay cả khi trừng phạt có hiệu quả trong việc làm giảm hành vi trong một lúc ngắn, thường thường nó được thay thế mau lẹ bằng một hành vi khác có khi tệ hơn, vì ta chưa giải quyết tại sao có hành vi.
– Trừng phạt không có hiệu quả còn là vì nó không dạy kỹ năng mới, hoặc cho trẻ lời giải thích là em cần phải làm gì. Nhiều trẻ tự kỷ không hiểu sự liên kết giữa hành vi của mình và sự trừng phạt em nhận lãnh.
– Trừng phạt thường chỉ có hiệu quả khi dùng trong một khung cảnh riêng biệt và do một người  riêng biệt  làm. Điều này đặc biệt đúng cho người tự kỷ, với khiếm khuyết là không biết tổng quát hó a kinh nghiệm cho các khung cảnh khác nhau.
– Trừng phạt cho ra khuôn mẫu về hành vi mà khi cá nhân bắt chước có thể gây ra thêm vấn đề về sau. Thí dụ đánh trẻ vì em có hành vi nào đó không chừng dạy em hành xử y vậy với người khác trong tương lai.
– Trừng phạt có thể dẫn tới sự hung bạo đối với người trừng phạt.
– Dùng sự trừng phạt với ai gặp khó khăn trong việc  liên lạc tỏ ý và giao tiếp với người khác, không hiểu được thế giới và dễ bị căng thẳng, lo lắng về nhiều mặt, cũng gây ra những vấn đề đáng nói về mặt đạo đức.

   – Hãy thư thả.
Việc đối phó với hành vi khó chịu có thể đòi hỏi nhiều nơi cha mẹ và người chăm sóc. Cha mẹ nào thỉnh thoảng cũng cần được nghỉ ngơi không phải chăm sóc con trong một lúc, ấy là chuyện tự nhiên và lành mạnh. Hãy xem kỹ là bạn có năng lực để hỗ trợ con là một trong những điều quan trọng nhất của bất cứ cách can thiệp nào. Nghĩ về nhu cầu riêng của bạn có nghĩa bạn được trang bị tốt đẹp hơn để cho hỗ trợ tốt nhất có thể có được cho con.
Hỗ trợ của chồng/vợ, gia đình, bạn bè v.v đều quan trọng. Tuy nhiên bạn cũng có thể nhờ dịch vụ xã hội giúp đỡ. Những cách giúp đỡ có sẵn sẽ thay đổi tùy trường hợp và nhu cầu của em, và gồm những việc như chăm sóc thay, giúp đỡ tại nhà, tài trợ để sửa đổi nhà cho hợp với nhu cầu của người tự kỷ. 

6. Si Mê.
Tật si mê, hành vi lập đi lập lại và theo thông lệ là những đặc điểm chính trong chứng tự kỷ. Cách những tật này lộ ra thì thay đổi rất khác nhau từ người này sang người khác, và theo mức phát triển, khả năng của riêng mỗi người, cùng những ưa thích riêng của họ. Ta sẽ xem vài lý do tại sao người tự kỷ có hành vi lập đi lập lại và có vài đề nghị về cách đáp ứng với tật.

 ● Hiểu Tật Si Mê.
Vài thí dụ là phẩy cánh tay hay bàn tay, búng ngón tay, lắc lư thân hình, nhẩy cà tưng, xoay người mòng mòng, đập đầu, và uốn vặn thân hình phức tạp. Tật cũng có thể là chăm chú với những phần của vật hơn là với vật (thí dụ mải miết quay bánh xe của xe hơi đồ chơi), dùng vật lập đi lập lại theo một cách như búng giây thun hoặc quay hoài một sợi dây, ngửi tới ngửi lui một vật, sờ hoài không chán vật gì, và lắng nghe những tiếng động khác nhau. Hành vi lập đi lập lại như vậy được thấy nhiều ở người tự kỷ khả năng thấp và nơi trẻ con, hơn là người trưởng thành. Dầu vậy, một số thiếu niên hay người trưởng thành có thể có lại hành vi đã làm hồi trước như phẩy tay và lắc lư người, khi họ lo lắng hoặc bị căng thẳng.
Công dụng và tính chất thật sự của hành vi lập đi lập lại thay đổi tùy theo người, tuy nhiên ta có thể ghi ra vài nguyên do để gợi ý:
– Muốn tìm cách có kích thích cảm quan, thí dụ lắc lư người có thể là cách cho trẻ có được kích thích của hệ tiền đình (vestibular system), phẩy tay hay búng ngón tay không chừng cho kích thích thị giác.
– Muốn giảm kích thích cho cảm quan và kích thích trong khung cảnh, như chú tâm vào một âm thanh riêng biệt có thể làm giảm tác động của khung cảnh ồn ào gây lo lắng, nhất là trong cảnh phải tương tác với người khác.
– Đó là cách đối phó với sự căng thẳng và lo lắng, và để ngăn chặn cảm giác bất an vì không biết điều gì sẽ tới.
– Nguồn mang lại sự vui thích và làm bận rộn.
Thí dụ Ted không biết tới điều gì ngoài nút chặn bồn tắm và vòi nước, vì hai vật này có nghĩa đối với em và làm em cảm thấy mình điều khiển được sự việc. Đối với Ted, nút chặn bồn tắm giống như cửa tháo nước lụt mà em kiểm soát, tháo nước cho chẩy đi theo hướng định sẵn, y hệt lần nào cũng như lần nào, tiên liệu được, có mục đích và làm như có chủ ý.  Vì vậy, Ted không ưa thích ai khác hay vật gì khác vì cả hai không có ý nghĩa rõ ràng và tầm quan trọng như vậy, và cả hai không thể tranh lại với nút chặn bồn tắm và vòi nước. Em không thể kiểm soát đường hướng của người khác, cũng như người ta không hề  xử sự theo đường hướng xác định rõ ràng, tiên liệu y hệt lần nào cũng như lần nào, có mục đích và có chủ ý.
Đối tượng cho lòng si mê có rất nhiều, tùy theo ưa thích cá nhân và mức độ khả năng. Trẻ tự kỷ ưa thích khủng long, nhân vật trong phim hoạt họa, máy điện toán, xe lửa, ngày tháng hoặc sự kiện lịch sử, tài tử xi nê hay ca sĩ, quân đội, thể thao hay khoa học. Đôi khi người ta có thể si mê vật lạ như bảng số xe hơi, thời biểu xe bus hay xe lửa, mã số bưu điện, đèn giao thông v.v.
Có người giữ nguyên cả đời chỉ si mê một chuyện; người khác thay đổi vật si mê sau một thời gian. Si mê thường khác với những sở thích khác ở mức sâu đậm (như bỏ công tìm tòi dữ kiện và say sưa với vật hay điều này), thời gian kéo dài (như trẻ dành bao nhiêu thời gian cho điều em ưa thích, thường xuyên ra sao). Điều si mê có thể xâm lấn sâu vào cuộc sống của người ta, và giới hạn việc có những sinh hoạt khác.
Một đặc tính khác hay thấy của chứng tự kỷ là tính ràng buộc vào một vật riêng biệt. Đó có thể là đồ chơi như hình tượng, xe hơi, hoặc vật khác thường như nút bình sữa, đá, giầy v.v. Có người thích sưu tập như quảng cáo du lịch, côn trùng, lá cây hay vé xe bus. Giống như các si mê khác, thời gian si mê, nói tới điều si mê thường như thế nào là đặc tính làm sự si mê khác với ưa thích thông thường.
Có nhiều lý do cho sự si mê.
– Đề tài hay vật có thể cho cấu trúc, thứ tự và sự tiên liệu cho người tự kỷ, giúp họ đối phó được với những thay đổi và bất ổn trong cuộc sống hàng ngày.
– Ai gặp khó khăn trong việc giao tiếp với người khác có thể nói tới điều mình ưa thích đặc biệt để dễ nói chuyện hơn, và để có được cảm tưởng an toàn trong cảnh ngộ như thế.
– Si mê có thể làm người ta nghỉ ngơi thoải mái.
– Đương sự có thể thấy vui thích cao độ khi học về một đề tài đặc biệt hay sưu tập vật họ ưa thích.

 

● Thông Lệ và việc Chống lại Thay đổi.
Cô Thérèse Joliffe, người tự kỷ khả năng cao tốt nghiệp đại học, nói rằng:
Thực tại đối với người tự kỷ là mớ hỗn độn gồm sự việc, người, nơi chốn, âm thanh và hình ảnh tương tác với nhau. Làm như không có ranh giới rõ ràng, trật tự hay ý nghĩa cho bất cứ chuyện gì. Một phần lớn của đời tôi được dành để tìm cách hiểu diễn biến của mỗi việc. Đặt thông lệ, giờ giấc, đường đi rõ rệt và  thể thức, tất cả những điều này đều giúp để mang lại thứ tự trong cuộc sống hỗn loạn không sao chịu được. Tìm cách giữ cho mọi vật lúc nào cũng như nhau làm giảm bớt đôi chút nỗi kinh hoảng ghê gớm.
Nhiều người tự kỷ ở đủ mọi lứa tuổi và khả năng ưa thích mạnh mẽ thông lệ và muốn giữ nguyên tình trạng (sameness). Họ có thể cần có thông lệ cho sinh hoạt hằng ngày như giờ cơm hay giờ đi ngủ, và có thể rất khổ sở nếu thông lệ bị gián đoạn. Thông lệ có thể trở thành gần như là nghi thức như là cần phải theo chính xác, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt, và đương sự có thể khổ sở vô cùng nếu diễn biến bị xáo trộn trước khi xong thông lệ. Thí dụ sáng ra xe đi học thì trước đó trẻ phải bầy hết con thú đồ chơi lên thành cửa sổ, chạm vào bốn góc giường, mở đóng cửa phòng riêng ba lần, rồi chạy ào xuống cầu thang mà không ai được phép đứng sẵn dưới chân cầu thang. Nếu thứ tự bị gián đoạn thì phải làm lại từ đầu.
Có người sinh ra hành vi như rửa tay không ngừng hoặc kiểm lại khóa các nơi trong nhà; người khác nữa bị ám ảnh phải nghĩ ngợi luôn về những chuyện rầu rĩ như cái chết, đau ốm hoặc phạm lỗi lầm. Nghi thức có thể là lời nói, như người ta hỏi đi hỏi lại cùng một câu và muốn phải có câu trả lời riêng, thí dụ hỏi chừng nào đi bơi thì muốn có câu trả lời như thế nào đó, trả lời khác đi không được. Xin đọc thêm chuyện Jimmy và chuyện Dane trong quyển Để Hiểu Chứng Tự Kỷ.
Đương sự cũng có thể thấy thay đổi trong khung cảnh chung quanh, như xếp đặt lại bàn ghế trong phòng, hoặc nhà vắng bớt hay có thêm người, là những chuyện rất khó cho họ đối đầu. Ngay cả thay đổi bình thường trong thông lệ mà đa số người khác vui thích như nghỉ hè, nghỉ lễ cũng làm người tự kỷ bị căng thẳng. Khi khác những thay đổi nhỏ như lúc chuyển tiếp giữa hai sinh hoạt có thể làm họ khổ sở; với người khác nữa thì có thay đổi bất chợt không báo trước là chuyện khó giải quyết nhất, như thầy cô nghỉ một buổi và có thầy cô khác dạy thế. Có người có ưa thích cứng ngắc về thức ăn, thí dụ chỉ ăn thức ăn mầu trắng như cơm, thịt gà, khoai tây v.v., quần áo họ mặc như chỉ mặc y phục bằng một loại vải nào đó, hoặc đồ vật dùng hàng ngày, thí dụ chỉ dùng xà phòng hiệu X.
Việc tùy thuộc vào một thông lệ riêng có thể gia tăng trong thời gian có thay đổi, căng thẳng hay đau ốm, và có thể có tính khống chế hay cầu kỳ thêm vào những lúc này. Cũng có ý kiến nói rằng việc tùy thuộc vào thông lệ có thể gia tăng hay lộ ra trong tuổi thiếu niên, như là hệ quả của thay đổi về tâm tánh, thân thể và môi trường chung quanh của họ. Thông lệ có thể xâm nhập quá đáng vào cuộc sống của chính đương sự, gia đình, thí dụ khăng khăng đòi khi ăn cơm thì ai trong nhà phải ngồi đúng chỗ của họ lần nào cũng như lần nào không được đổi chỗ, hoặc chỉ có thể đi chợ vào thứ năm mà thôi. Thông lệ cũng có thể gây lo lắng vô tả và giới hạn kinh nghiệm cũng như cơ hội cho họ. Dầu vậy, ta nên nhớ rằng những hành vi này thường khi có vai trò quan trọng cho đương sự, cho họ trật tự, qui củ và sự tiên liệu, và giúp họ đối phó được với những sự lo lắng khác nhau.

 

7. Cách Đáp Ứng.

Trước khi có đáp ứng với các tật si mê và lập đi lập lại ta cần đặt một số câu hỏi.
– Đương sự có tỏ ra khổ sở khi có hành vi, hoặc có cho dấu hiệu là họ tìm cách cưỡng lại hành vi ? Thí dụ ai phẩy tay có thể ráng ngồi đè lên hai tay để ngăn lại hành vi.
– Đương sự có thể tự mình ngừng lại hành vi ?
– Hành vi, sự si mê, hay thông lệ có ảnh hưởng đến chuyện học của họ ?
– Chúng có giới hạn cơ hội giao tiếp của họ ?
– Chúng có gây ra xáo trộn đáng kể cho người khác trong đời của người tự kỷ ?
Có gợi ý là cần phân biệt giữa sở thích và tính si mê, để xem hành vi có là vấn đề thực sự cho người tự kỷ, hay những người khác trong đời họ có bị bực dọc với hành vi. Ai trong chúng ta cũng có sở thích đặc biệt, có thông lệ, và thấy không vui nếu nó bị xáo trộn. Chẳng hạn ở nhà thì sáng dậy phải mở cửa cho thoáng, dọn dẹp gọn gàng rồi mới bắt đầu chuyện cần làm; còn nếu vào sở thì ta đọc email xong rồi mới lo sang những điều khác. Vì thế điều quan trọng là xem xét việc đặt giới hạn cho hành vi nào đó có lợi cho đương sự hay chăng. Nếu câu trả lời cho các câu hỏi trên là 'Có' thì hãy nên tìm cách giúp người tự kỷ giảm hành vi si mê và lập đi lập lại.
Nghiên cứu về các đáp ứng thích hợp cho những hành vi này thấy rằng cách đối phó từ từ với những thay đổi xem ra có hiệu quả nhất. Nó có nghĩa ta giảm được hành vi lập đi lập lại bằng cách có những thay đổi nhỏ và đi chậm. Như đã ghi, lòng si mê, hành vi lập đi lập lại và thông lệ thường khi đóng một vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa trong đời người tự kỷ, giúp họ đối phó được với sự lo lắng, và làm chủ được một thế giới hỗn loạn, hoang mang. Vì vậy trọng tâm của sự chú ý nên luôn luôn là việc thụ đắc những kỹ năng thay thế, để giúp đương sự tự điều chỉnh mức căng thẳng của mình, và đối phó khá hơn với khung cảnh. Cách tốt nhất để giảm bớt từ từ các hành vi này và duy trì mức ấy là hiểu vai trò mà hành vi có thể có đối với họ, và nghĩ ra cách giải quyết. Dưới đây ta ghi ra vài biện pháp can thiệp.

● Phân tích Vai trò.
Hãy có hiểu biết rõ ràng về những yếu tố chi phối, hay công dụng của hành vi đối với đương sự. Với người này, hành vi giúp họ trong việc tự chỉnh mức lo lắng hay đối phó được với tình huống xa lạ hoặc căng thẳng, thí dụ như việc giao tiếp; với người khác hành vi có thể có công dụng về cảm quan, như gia tăng hay giảm kích thích. Công dụng của hành vi sẽ thay đổi tùy người, nên điều quan trọng là tìm hiểu về những nguyên do có thể có về hành vi, và đặt ra giả thuyết về tại sao hành vi xẩy ra.

● Hãy Can Thiệp sớm.
Hành vi lập đi lập lại, lòng si mê và thông lệ thường chống lại thay đổi khi chúng được cho để lâu mới sửa. Vì lý do ấy, chuyện quan trọng là đặt giới hạn cho hành vi lập đi lập lại ngay lúc em còn nhỏ, và cảnh giác với bất cứ hành vi mới nào sinh ra khi em lớn dần. Mặt khác, hành vi chấp nhận được lúc trẻ hai, ba tuổi có thể không còn thích hợp khi em lớn hơn, và tới lúc này có thể thành khó sửa. Thí dụ trẻ ưa cởi hết quần áo có thể không gây ra vấn đề đáng nói, nhưng chuyện sẽ khác đi với thiếu niên và người trưởng thành có cùng hành vi.

● Tạo Qui Củ cho khung cảnh.
Gia tăng qui củ cho môi trường xã hội  và khung cảnh vật chất có thể giúp đương sự cảm thấy làm chủ nhiều hơn thế giới của mình, và không chừng giảm được sự lo lắng; hệ quả là giảm được nhu cầu làm hành vi lập đi lập lại, giảm việc tùy thuộc vào thông lệ. Gia tăng qui củ  trong môi trường cũng giảm sự buồn chán không biết làm gì, nhờ đó giới hạn cơ hội có hành vi lập đi lập lại. Vài cách để tăng qui củ cho môi trường là:
– Dùng hình như hình chụp, ký hiệu, bảng liệt kê có thể giúp làm giảm sự lo lắng có liên quan đến khó khăn trong việc tiên liệu chuyện gì sẽ xẩy ra tiếp trong trình tự các sinh hoạt, và có thể hỗ trợ ai rất thích có thông lệ. Hình giúp ai hiểu được ý niệm trừu tượng như thời gian có thể đặc biệt hữu ích, cũng như là thời biểu bằng hình hay thời biểu trọn ngày.Hình cũng giúp được khi đương sự hỏi hoài một câu như trong thí dụ sau.
Con trai chúng tôi, Willie 14 tuổi, thích hỏi hoài một câu tới lui không ngớt. Làm như vài tuần cháu lại có một câu hỏi mới. Vì chuyện làm tôi rất mệt, tôi học cách viết câu trả lời lên giấy và đặt lên cửa tủ lạnh.  Khi cháu hỏi, tôi bảo ra tủ lạnh tìm câu trả lời. Vì Willie biết đọc nên tôi có thể viết câu trả lời, còn cho trẻ nào không biết đọc ta có thể dùng hình  thay cho chữ.
– Soạn sẵn những cách có thể giúp đương sự chuẩn bị cho các sinh hoạt, diễn biến gây căng thẳng, hoặc bất cứ thay đổi nào sắp có mà ta biết. Cho đương sự thông tin về sự việc vào lúc mà mọi người  vui vẻ thoải mái. Cho thông tin bằng hình có thể giúp họ hiểu, và có hình gợi nhớ cho họ coi lại trong lúc căng thẳng hoặc lo âu. Cha mẹ kể lại lợi ích của việc soạn sẵn cho sự việc có tính căng thẳng với con trai như sau:
Tôi cho con thấy hết những tờ quảng cáo với đồ chơi mà ông già  Noel có thể mang tới, con có thể làm gì với đồ chơi, dùng nó ra sao. Hai mẹ con cắt hình và dán lên giấy. Tôi làm cho con một tấm lịch có nhiều tờ trắng để cháu có thể tự mình xé ra, mỗi ngày một tờ. Cháu có thể thấy ngay là còn bao lâu thì tới ngày lễ. Chúng tôi dán hình có sự ngạc nhiên lên một tờ giấy đỏ, xong ra tiệm nhìn ngắm món quà thật vì nó trông không hoàn toàn giống y như trên tờ quảng cáo ...
Đêm Giáng sinh tôi cho con hay là có thể tìm món 'ngạc nhiên' ở đâu, và với giấy gói quà ra sao. Anh chị em của cháu cho là hết vui một nửa nếu biết trước chuyện gì sẽ tới. Nhưng sáng hôm sau là ngày lễ, tờ giấy đỏ nằm trên lịch của cháu, nó thành ra ngày vui cho hết mọi trẻ, luôn cho Thomas vì nay cháu không ném giấy xuống đất, không la hét hay òa khóc. Cháu tìm thấy điều mình mong chờ. Chuyện đã được tiên liệu. Cháu NGẠC  NHIÊN ... và tôi hớn hở vô cùng vì thấy con thật tình vui sướng.

– Viết chuyện có thể hợp cho một số người vì nó cung cấp thông tin về chuyện gì sẽ xẩy ra trong một số tình cảnh khác nhau, và có thể làm thích nghi cho nhu cầu riêng mỗi người. Việc soạn trước cũng có thể gồm việc xếp đặt khung cảnh có qui củ để giảm sự lo lắng và buồn chán. Thí dụ như xếp đặt cho học sinh dùng máy điện toán ở thư viện trong giờ ăn trưa, để có thể giảm bớt sự căng thẳng hay có vào thời điểm này trong ngày. Thí dụ khác nữa là có một loạt nhiều sinh hoạt chuẩn bị sẵn mà có tính làm dịu, để có thể hướng đương sự tới việc ấy nếu thấy em tỏ vẻ buồn chán hoặc căng thẳng.
– Giảm thiểu ảnh hưởng của kích thích cảm quan như tiếng ồn (thí dụ chuông reo ở trường) hoặc mùi (của nước hoa, xà phòng) có thể giúp em đối phó khá hơn với khung cảnh.

● Phát triển kỹ năng.
– Tập kỹ năng tự  điều chỉnh.
Chúng gồm những sinh hoạt nào giúp người ta làm chủ được hành vi và tình cảm của mình. Học cách nhận ra khi nào mình bị căng thẳng hay lo lắng bằng cách để ý tới phản ứng trong cơ thể, và học có một loạt những cách đối phó khác nhau và thích ứng (thí dụ như cách để được thư thái, hoặc hỏi để được giúp đỡ) cho hành vi lập đi lập lại hoặc có tính nghi thức, có thể làm giảm việc có những hành vi ấy.

– Tập kỹ năng giao tiếp.
Dạy cách mở đầu và chấm dứt cuộc chuyện trò, đề tài thích hợp để thảo luận và cách nhận ra những dấu hiệu không lời của người khác, có thể làm bớt đi việc người tự kỷ phải dựa vào một đề tài riêng biệt nào dó trong khi giao tiếp.

– Đối phó với sự thay đổi.
Thay đổi là chuyện không tránh được và  một phần quan trọng trong đời mà có thể gây ra khó khăn đáng kể cho người tự kỷ. Tuy không phải lúc nào ta cũng có thể chuẩn bị cho thay đổi trong thông lệ hay tình trạng, điều quan trọng là cho đương sự biết trước và chuẩn bị trước càng nhiều càng tốt. Cho họ từ từ biết vật, chỗ, người hay hoàn cảnh mới  mỗi lần một chút và dễ hiểu có thể giúp họ đối phó được với sự thay đổi.
Nên có thưởng (như khen hoặc hình thức khác) cho đương sự khi đối phó được với những thay đổi nhỏ, điều ấy sẽ khuyến khích em có tính khoan dung nhiều hơn. Cho thông tin bằng hình (như ký hiệu trên thẻ, thời biểu, hoặc lịch) có thể giúp giảm bớt ảnh hưởng của việc thay đổi trong thông lệ hay tình trạng. Ta có thể dùng cách viết chuyện, để giải thích tại sao có thay đổi cho trường hợp riêng nào đó hay thông lệ có thể đôi lúc xẩy ra, cũng giúp được cho đương sự hiểu thêm.
Làm em chú ý đến sinh hoạt khác có tính làm dịu xuống, và khuyến khích em dùng những cách giản dị để được thư thái, như thở sâu và chậm nhiều lần khi có thay đổi bất ngờ xẩy ra, cũng có thể giúp em đối phó được với chuyện.

– Cho có thêm cơ hội.
Có ý kiến là ta nên nghĩ chuyện khác cho trẻ tự kỷ làm thay cho hành vi lập đi lập lại hay sự si mê. Nó có nghĩa tìm những sinh hoạt khác có sẵn cho trẻ nếu hành vi lập đi lập lại và sự si mê bị giới hạn. Có thêm sinh hoạt có sẵn cho em và tập cho em kỹ năng để tham dự vào được nhiều sinh hoạt khác là những điều quan trọng trong bất cứ cách can thiệp nào. Với người này thì điều ấy có nghĩa là tập cho họ kỹ năng giao tiếp, và tăng cơ hội giao tiếp cho họ bằng cách gia nhập một nhóm hay hội quán. Cho người khác nó có thể là tìm cơ hội giải trí (như thể thao và chơi đùa) hay liên quan đến việc làm (như học thêm, huấn nghệ) cho họ.

– Đặt giới hạn rõ rệt và chuyên nhất cho hành vi.
Đặt giới hạn cho hành vi, thông lệ và sự si mê là điều quan trọng và thiết yếu để giảm thiểu ảnh hưởng của những hành vi này trong đời  người tự kỷ. Có những bước cần theo khi đặt giới hạn cho một hành vi riêng biệt.
Xác định rõ rệt hành vi lập đi lập lại, si mê hay thông lệ nào làm bạn lo ngại (như Jane thích nói về động cơ xe lửa trong phần lớn cuộc nói chuyện với người khác. Nay Jane bắt đầu nói về động cơ xe lửa chừng mười giây sau khi trò chuyện, và chỉ được nói năm phút là phải ngưng).
Nghĩ về giới hạn hợp lý và có thể thực hiện được để áp dụng cho hành vi. Bạn cần quyết định bắt đầu ở một điểm mà họ có thể làm được. Nếu người tự kỷ không đạt tới điểm này thì chuyện quan trọng là giảm giới hạn tới một mức thực hiện được. Hãy nhớ rằng sự thay đổi hành vi dễ được thành công, và đương sự ít bị khổ sở nếu bạn bắt đầu ở mức nhỏ, và đi từ từ chậm rãi.
Thí dụ thêm vào việc tập kỹ năng giao tiếp để giúp Jane học về những đề tài khác thích hợp cho việc chuyện trò, Jane được phép nói về động cơ xe lửa sau khi đã chuyện trò 20 giây, và rồi chỉ nói về động cơ trong vòng năm phút mà thôi. Tùy theo Jane làm được hay không đòi hỏi này mà thời gian giới hạn được tăng lên từ từ, và ta đặt ra số lần mà trong ngày mà Jane được phép nói về động cơ xe lửa, cũng như được phép nói với ai. Mục tiêu cuối cùng có thể là cho Jane chỉ nói về động cơ với người trong nhà trong vòng một phút, hai lần trong ngày.

Giới hạn có thể đặt theo nhiều cách, tùy vào hành vi mà bạn quan tâm. Sau đây là vài thí dụ:
– Giới hạn số vật. Thí dụ mỗi lần chỉ được mang năm hòn sỏi trong túi.
– Giới hạn thời gian. Thí dụ được xem video mà em si mê chỉ hai lần trong ngày, mỗi lần 20 phút.
– Giới hạn  nơi chốn. Thí dụ chỉ được phép quay mòng mòng trong nhà mà thôi.
Chuyện quan trọng là có thái độ chuyên nhất trước sau như một đối với giới hạn đặt để trong mọi  khung cảnh, để giúp cho em học hành vi mới.
Giới hạn cần được đặt bằng cách dùng những luật rõ ràng, cho biết ở đâu, khi nào, với ai hoặc bao lâu mà hành vi được cho phép làm. Trưng ra ý này bằng hình, cho thấy khi nào đương sự có thể có hành vi cũng như khi nào không được phép có, để giúp em hiểu và giúp em đối phó sự lo lắng mà việc giới hạn hành vi hay sinh hoạt có thể gây ra.

 ● Vài cách khác:
Làm ngưng hành vi lập đi lập lại bằng cách kêu em làm sinh hoạt khác vui hơn và thích hợp hơn, có cùng công dụng như hành vi lập đi lập lại.
– Kêu trẻ chơi đu thay vì lắc lư thân hình. 
– Cho trẻ nhìn vào ống kính vạn hoa hoặc cho thổi bong bóng nước, khi em búng ngón tay để có kích thích thị giác.
– Cho em một túi có đựng những món khác nhau mà ăn được như nui khô, các loại hạt, để cho cùng kích thích về cảm quan cho em nào ăn bậy, bất cứ vật gì cũng bỏ vào miệng.
– Cho chơi đất sét bằng bột play dough, cho em nào thích vọc phân của mình.